Có một Tản Đà nhà báo

Đời bay nhảy, lận đận vì báo chí

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân đã đưa Tản Đà mở đầu cuộc tao đàn văn chương của cuốn sách và gọi thơ ông có sự “phóng túng riêng”, “đã dạo những bản mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa”. Cả Hoài Thanh – Hoài Chân đã tán dương phong cách của một người đi giữa hỗn độn xã hội Việt Nam “với tấm lòng thanh thản của một người thời trước”. Cái ngang tàng không hề vay mượn của người xưa, cái buồn chán không rên rỉ mà mang chất trượng phu.

Văn chương Tản Đà là vậy, còn báo chí ra sao? Tản Đà là con trai út của mối lương duyên tài tử và giai nhân này. Cha ông làm quan, cũng là một người phong lưu tài tử và kết duyên với một đào hát tài sắc vẹn toàn ở Nam Định. Chính mối tình “tài tử giai nhân” này Tản Đà đã thừa hưởng tính phong lưu từ cha mẹ.

Theo ghi chép, năm 1913, người anh cả đã nuôi Tản Đà từ ba tuổi là Nguyễn Tài Tích mất, Tản Đà về Vĩnh Phú làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục “Một lối văn nôm”. Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một tri huyện ở Hà Đông. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên Đông dương tạp chí, nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép núi Tản, sông Đà. Cái tên Tản Đà nó đúng với phong thái và đam mê của ông “suốt đời bay nhảy”: “Nước rợn sông Đà con cá nhảy/Mây trùm non Tản cánh diều bay!”.

Và từ đây sự nghiệp báo chí, văn chương, rong chơi của ông đã trở thành huyền thoại trong đời sống văn nghệ thời đó. Cái tên Tản Đà quá nổi danh khiến các chủ báo luôn cần bài viết của ông. Phạm Quỳnh sáng lập ra Nam Phong tạp chí (1917), tên Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn.

Ảnh tư liệu.

Ảnh tư liệu.

Tản Đà quen với một nhà tư sản, cùng nhau du lịch khắp nơi và làm chủ bút Hữu thanh tạp chí một thời gian. Năm 1922, Tản Đà thành lập Tản Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà thư cục), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại Tản Đà thư điếm đã in nhiều tác phẩm đặc sắc của ông như: Tản Đà tùng văn (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện Thề Non Nước, 1922); Truyện thế gian tập I và II (1922), Trần ai tri kỷ (1924), Quốc sử huấn nông (1924) và tập Thơ Tản Đà (1925).

Năm 1926, Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời An Nam tạp chí số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Long. Sự ra đời của An Nam tạp chí, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận của ông.

Thời kỳ đầu làm chủ An Nam tạp chí, Tản Đà phong lưu, thường đi thăm thú khắp nước. Ông vừa làm báo, vừa đi chơi nên tạp chí cũng ấn bản thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo. Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, các tập Nhàn tưởng (bút ký triết học, 1929), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1929), Khối tình con III (in lại thơ cũ), Thề non nước (truyện), Giấc mộng con II (truyện), lần lượt ra đời.

Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, thì An Nam tạp chí của Tản Đà chính thức đình bản sau 3 lần đình bản và 3 lần tái bản. Cuộc sống của Tản Đà xuống cấp trầm trọng, phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống. Tờ báo chỉ tồn tại có 48 số.

Lúc ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, lại thấy mấy tờ báo đăng quảng cáo: “Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội – Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói.

“Trăm năm hai chữ Tản Đà/Còn sông, còn núi, còn là ăn chơi/Dở hay muôn sự ở đời/Mây bay nước chảy mặc người thế gian”. Mấy câu thơ ông viết về Thú ăn chơi đúng là từ con người ông mà ra “quê hương thì có, cửa nhà thì không”. Một đời phiêu dạt!

Báo chí để “bắt bệnh” xã hội

Trong cuốn 40 năm nói láo, Vũ Bằng đã nhấn mạnh sự kham khổ của “người làm báo chân chính tranh đấu không cần ai khen, không sợ ai chửi hết”: “Người làm báo chân chính chiến đấu cho dân tộc, cho tương lai, có lúc nào rảnh rang chỉ ngồi nhìn lại quá khứ tự hỏi lòng mình có xứng đáng làm chiến sĩ không và chiến sĩ mức độ nào thôi… Tôi tưởng như trông thấy những người bạn suốt đời viết báo, suốt đời khổ như Tản Đà, Văn Sen, Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Lê Văn Trương, Đinh Hùng, nay đã chết rồi mà vẫn còn cứ ôm ngòi bút viết bài nơi âm phủ”.

Cách khen ngợi của Vũ Bằng về Tản Đà tôi nghĩ là chính xác. Một “ký họa” chân dung Tản Đà thật sinh động. Báo chí hay văn chương của Tản Đà luôn nhức nhối, cái nhức nhối đó như cái gai đâm vào chân ta mà không rút ra được, thỉnh thoảng đau nhói, nếu muốn lấy nó ra phải phẫu thuật mới lành lặn, khỏe mạnh được. Đó là phải chữa trị những thói hư tật xấu của con người và xã hội.

Tôi đọc một bài rất hay của Tản Đà mà đến bây giờ tệ nạn này phát triển rất không lành mạnh ở xã hội, nhất là ở những thành phố lớn, bài hịch có tên Hịch đuổi kẻ ăn mày.Cái ăn mày đây là ăn mày ngoài đường phố, nhưng bây giờ có cả “ăn mày trên mạng xã hội”, ví như kêu gọi từ thiện rồi trục lợi, hay giả vờ nghèo đói để lấy lòng thương thiên hạ. Bài hịch có góc nhìn rất lạ, ông cho rằng người ăn mày chẳng qua lười biếng, không chịu làm lụng. Tản Đà dẫn câu của Mạnh Tử: “Sự cho người có khi làm hại sự ân huệ”.

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn nhận định: “Khi biết rằng những điều hôm nay chúng ta bàn bạc, nhà thơ núi Tản sông Đà đã đả động tới từ hơn nữa thế kỷ trước, chúng ta càng tin không phải mình nhẫn tâm mà đang suy nghĩ đúng. Nhất là khi thói quen nhân danh sự nghèo khó vẫn đang được bộc lộ trong vô số hành động khác nhau, kể cả những việc bề ngoài chẳng dây mơ rễ má gì hết tới chuyện ăn mày”.

Vũ Bằng nói về cách Tản Đà làm báo rằng: “… làm báo mà chỉ lo chau chuốt một chữ trong thơ, cả ngày say rượu, không thèm biết một tý gì về tình hình quốc nội và quốc tế… Tôi phục Tản Đà đã đem một cái đẹp cao siêu vào mục thi ca cho làng báo”, ngoài ra Vũ Bằng còn chê “tính xấu” của Tản Đà “đó là tính tự phụ, coi thiên hạ như cỏ rác!”.

Tản Đà cũng là người có ý thức rõ rệt về việc kết hợp văn chương và báo chí. Ông chứng minh rằng nhà báo giỏi không chỉ cần kiến thức thời sự mà còn cần tâm hồn văn chương, lòng yêu nước và dũng khí phản biện. Ông cũng tôn vinh chất văn làm đẹp và làm sâu sắc ngôn ngữ báo chí. Các bài viết của Tản Đà mang tiếng nói phản biện xã hội sâu sắc. Ông nhiều lần chỉ trích chế độ thực dân, phong kiến, phơi bày bất công xã hội, lên án sự lạc hậu, mê tín, bảo thủ trong tầng lớp quan lại. Ông sử dụng báo chí như một công cụ thức tỉnh dân trí và khơi dậy lòng yêu nước… Ông cũng đề cao sự trung thực và chính trực trong ngòi bút. Tản Đà không ngại va chạm với các cây bút lớn đương thời nếu thấy điều đó là cần thiết để bảo vệ chân lý và sự thật. Điều này là bài học lớn về đạo đức nghề nghiệp.

Nói về Tản Đà, hậu thế như tôi không dám ba hoa nhiều bởi vì ông quá hay: có tài, có tình, yêu lối viết của mình đến độ “cực đoan”, nhưng sự “cực đoan” đó quá đáng yêu. Nếu không có sự “ngông” đó, sự ung dung vững vàng đó, chúng ta đâu có ngòi bút của Tản Đà trên văn đàn và báo chí. Chỉ tính từ năm 1916 – 1939, Tản Đà để lại cho đời hàng nghìn bài báo, trên 30 cuốn thơ, văn cùng những trang dịch thuật.

Xin mượn lời trong cuốn Thi nhân Việt Nam kết thúc cho bài viết này: “Có tiên sinh người ta sẽ thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại, những đứa thất cước không có liên lạc gì với quá khứ của giống nòi. Có tiên sinh, trên Tao đàn còn phảng phất chút bình yên trong tin tưởng, chút thích thảng mà từ lâu chúng tôi đã mất”.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *