Chiều 24/6, với 397/411 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 83,05% tổng số đại biểu), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Nghị quyết quy định 3 tiêu chí xác định khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật gồm:
(1) Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật;
(2) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật;
(3) Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ; chưa có quy định của văn bản quy phạm pháp luật hoặc có quy định nhưng hạn chế việc đổi mới, sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế.
Về nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Điều 3 Nghị quyết quy định 5 nguyên tắc khi xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, định hướng cho quá trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chặt chẽ, tránh tùy tiện trong thực thi.
Khi xác định được các khó khăn, vướng mắc theo các tiêu chí, nguyên tắc đã nêu, Nghị quyết quy định các phương án xử lý, gồm: Giải thích luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại Điều 60 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định tại Điều 61 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn đế quy định vấn đề mới hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế quy định hiện hành theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Ban hành nghị quyết của Chính phủ, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này, trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội chưa được sửa đổi, bổ sung theo phương án quy định tại điểm b khoản này.
Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội không do Chính phủ trình chưa được sửa đổi, bổ sung theo phương án quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành nghị quyết để điều chỉnh quy định của luật, nghị quyết, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phải xác định rõ thời điểm hết hiệu lực nhưng phải trước ngày 1 tháng 3 năm 2027; danh mục luật, nghị quyết của Quốc hội và điều, khoản, điểm được đề xuất sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
Về tổ chức thực hiện, Nghị quyết quy định: Các cơ quan ưu tiên nguồn lực thực hiện việc rà soát, xác định khó khăn, vướng mắc, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả.
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tăng cường giám sát việc thực hiện nghị quyết này.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, người tham gia xây dựng nghị quyết này và tham gia xác định, xử lý các khó khăn, vướng mắc theo quy định tại nghị quyết này được xem xét loại trừ, miễn trách nhiệm trong trường hợp đã tuân thủ đầy đủ các quy trình, quy định liên quan và không vụ lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhưng vẫn xảy ra thiệt hại.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày được thông qua đến hết ngày 28/2/2027.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh. (Ảnh: Cổng TTĐTQH) |
Trước khi Quốc hội thông qua, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đã báo cáo tóm tắt tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết. Trong đó, về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ bổ sung quy định về trách nhiệm của các thành viên Hội đồng thẩm định độc lập tại khoản 4 Điều 5 dự thảo Nghị quyết. Đồng thời, quy định các nội dung cụ thể về cơ chế phối hợp, trách nhiệm của các thành viên Hội đồng thẩm định tại Quy chế hoạt động do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Về việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Chính phủ đã chỉnh lý khoản 5 Điều 6 dự thảo Nghị quyết theo hướng mở rộng chủ thể và tăng cường việc giám sát của các chủ thể đối với việc Chính phủ ban hành nghị quyết để điều chỉnh luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cùng với đó, Chính phủ sẽ quán triệt việc tăng cường trách nhiệm và tính chủ động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết.