Một thương hiệu lớn cho doanh nhân “trú ẩn”
PSG.TS Đỗ Bang thuộc Hội Sử học Thừa Thiên Huế cho biết, khi chúa Nguyễn Hoàng và trấn thủ dinh Quảng Nam là Nguyễn Phúc Nguyên đã viết nhiều thư kêu gọi thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Trong lúc đó phương Tây hướng về phương Đông, các thương nhân Nhật Bản, Trung Hoa đến Hội An và ở lại đây xây dựng phố xá tạo nên một đô thị rất đặc trưng, pha trộn nhiều nền văn hóa.
Chúa Nguyễn cho thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc chọn một nơi gần thương cảng Hội An để lập phố buôn bán và cư trú lâu dài.Từ đó ở Hội An đã hình thành hai khu phố tự trị của người Nhật và người Hoa. Họ sống riêng biệt, đặt quan cai trị riêng và theo phong tục, tập quán của mỗi nước.
Vào thời điểm nói trên ở vùng đất Quảng Nam, Chúa Nguyễn cũng tiếp nhận nhiều thuyền buôn Bồ Đào Nha và Hà Lan đến buôn bán và dự định cấp cho người Bồ ở vùng cận cảng Đà Nẵng 3 – 4 dặm đất để lập phố với những tiện nghi và ưu đãi như Chúa Nguyễn đã dành cho người Nhật và người Hoa.
Thông tin trong một cuộc hội thảo quốc tế về Hội An vào năm 1990 cho thấy, vào thế kỷ XVII diện mạo đô thị Hội An, được xác định vị trí như sau: Phía đông là phố Nhật, nằm ở hạ lưu sông; Phía tây là Đường Nhân phố (phố người Hoa), nằm ở thượng lưu sông; Phía nam là sông lớn (sông Thu Bồn lúc đó); Phía bắc là An Nam phố (tức phố người Việt).
![]() |
Phố Nhật ở vị trí làng Hoài Phô, một làng cổ lâu đời nên con sông Thu Bồn đoạn chảy qua phố Hội An còn gọi là sông Hoài. Địa danh Faifo (tên người Pháp đặt cho Hội An) cũng bắt nguồn từ tên làng, tên sông đó. Làng Hoài Phô được ghi tên trong sách Ô châu cận lục (1555). Vào thế kỷ XVIII, làng đổi tên là Hoa Phô; về sau đổi thành làng Sơn Phô. Sơn Phô hiện thuộc xã Cẩm Châu, thành phố Hội An.
Cũng theo TS. Đỗ Bang, người Nhật đến mua 20 mẫu đất của làng Hoài Phố và An Mỹ để xây dựng phố xá, sinh sống; lập một ngôi chùa lấy tên là Tùng Bổn. “Trong tấm bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật ở Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) được khắc ghi vào năm 1640 mà chúng tôi đã khảo sát và công bố năm 1985 cho thấy có 9 lần nhắc đến địa danh dinh Nhật Bổn và một lần nhắc đến địa chỉ dinh Tùng Bổn, nơi người Nhật sinh sống tại Hội An và cúng rất nhiều tiền cho ngôi chùa này. Đây là thời kỳ cực thịnh của phố Nhật tại Hội An nên người phương Tây gọi Hội An là đô thị Nhật Bản.Vị thị trưởng đầu tiên được công nhận vào năm 1618 là Furamoto Yashiro; có nhiều thị trưởng có quyền hành rất lớn ở Đàng Trong như Simonosera. Có vị thị trưởng đã can thiệp với Chúa Nguyễn ban đặc ân cho Alexandre de Rhodes trong thời kỳ bị cấm đạo Thiên chúa”, PGS.TS Đỗ Bang chia sẻ.
Nhiều di tích thể hiện sự sinh hoạt, lối sống của người Nhật ở Hội An rất thịnh vượng, từ chợ búa, hải cảng, tàu bè qua lại cho đến việc người Nhật an táng ở đây: “Năm 1981, chúng tôi cũng tìm thấy 4 ngôi mộ cổ của người Nhật tại Hội An cũng ghi năm qua đời vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XVII”. (Theo “Đô thị Đàng Trong dưới thời các Chúa Nguyễn”, TS. Đỗ Bang)
Phố Nhật ở Hội An ra đời và thịnh vượng trong nửa đầu thế kỷ XVII và tồn tại đến cuối thế kỷ đó. Do nhiều chính sách cấm vận khiến người Nhật phải hồi hương, số còn lại kết hôn với người Hoa, người Việt rồi phai nhạt dần.
![]() |
Nǎm 1618, Hoa thương bắt đầu quy tụ về Hội An. Ngoài bức hoành phi có niên hiệu Thiên Khải – Tân Dậu niên (túc 1621) của một gia đình người Hoa ở trên đường Trần Phú còn giữ, được xem là di vật cổ xưa nhất của phố Khách.
Tư liệu còn cho biết ở vào thời thịnh hành của phố Khách, người Hoa đã xây dựng một tổ đình lấy tên là Cẩm Hà cung vào năm 1626, ở ranh giới làng Cẩm Phô và Thanh Hà, nằm về phía tây của thành phố Hội An hiện nay. Rất nhiều tư liệu minh chứng người Hoa qua Hội An mua đất để dựng phố qua các văn khế mua bán nhà đất ở đường Trần Phú ngày nay.
Đường Trần Phú hồi đó đã trở thành khu phố đông đúc của người Hoa với hai dãy phố xuất hiện như Bowyear đã mô tả (1695): “Hải cảng này chỉ có một con đường phố lớn trên bờ sông, hai bên có hai dãy nhà 100 nóc, toàn là người Trung Hoa ở”.
Cũng vào năm 1695, Thích Đại Sán đến Hội An đã ghi lại trong Hải ngoại ký sự (bản dịch Viện Đại học Huế, năm 1963): “Thẳng bờ sông một con đường dài 3 – 4 dặm,gọi là Đại Đường Nhai. Hai bên phố ở liền khít rịt. Chủ phố thảy là người Phúc Kiến vẫn còn ăn mặc theo lối tiên triều”.
Nhà nghiên cứu Châu Phi Cơ trong bài viết “Hội An 400 năm sự tích” cho rằng: “Người Nhật ở đầu đường phía mặt trời mọc của thành phố còn người Trung Hoa lập phố vào phía cuối đường mặt trời lặn”. Sau kết nối của người Nhật và người Hoa làm cho di sản của Hội An thêm sống động. Người Nhật đã xây dựng nên một chiếc cầu gọi là cầu Nhật Bản (Lai Viễn kiều), người Hoa làm chùa trên đó để thờ Bắc Đế nên gọi là chùa Cẩu. Đây là một địa danh mà ai đến Hội An cũng ghé thăm.
Tấm bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá vẽ (1630 – 1655) đã xuất hiện các tên Hội An phố, Hội An kiểu… đã giúp cho chúng ta khẳng định phố Hội An, cầu Hội An (cầu Nhật Bản) ra đời từ nửa đầu thế kỷ XVII.
![]() |
Những di sản như đình làng Hội An, đền Ông Voi ở đường Lê Lợi hiện nay được giới sử học cho rằng bên cạnh phố người Hoa và người Nhật còn có khu đô thị của người Việt ra đời trong nửa đầu thế kỷ XVII. Như vậy, trong lòng Hội An có cả người Nhật, người Hoa và người Việt sinh sống, tạo nên một đô thị đa dạng, có gắn kết, dù phong tục của cộng đồng vẫn theo lối riêng.
Suy tàn vì thời cuộc và địa lý
Sau một thời gian thịnh vượng, Hội An không còn giữ được vị thế một thương cảng hàng đầu ở Việt Nam. Phần do biến đổi về địa lý, phần do chính sách của nhà Nguyễn coi trọng cảng Đà Nẵng hơn.
Thế kỷ XIX, có khá nhiều đầm, bàu đã bị biến dạng. Cửa Đại bị bồi cạn là một trong những nhân tố dẫn đến sự suy thoái của thương cảng Hội An. Các sông Thu Bồn, sông Chợ Củi bị thay đổi dòng chảy, có những đoạn trước kia là con lạch sâu đã bị bồi lấp, cạn đi hình thành các khu đất mới. Khi Hội An không còn các đầm hổ đủ sâu và rộng để làm nơi tàu bè đỗ neo nữa thì ý nghĩa kinh tế của vùng đất này cũng vì thế mà giảm dần.
Đây cũng là thời kỳ nhà Nguyễn thực hành chính sách “bế quan toả cảng”. “Vị trí của Đà Nẵng càng trở nên quan trọng thì vị trí của Hội An càng mờ nhạt. Đà Nẵng trở thành một thương cảng lý tưởng ở miền Trung – mục tiêu nhòm ngó của các nước đế quốc phương Tây, cửa ngõ chiến lược để có thể thâm nhập và chinh phục Việt Nam”, TS. Tạ Hoàng Vân trong bài viết “Quy hoạch và kiến trúc đô thị Hội An dưới thời Chúa Nguyễn” nhận định.
Một thương nhân người Anh là Chapman đến Hội An, thấy cảnh hoang tàn của khu phố sau thời Tây Sơn đã viết: “Khi đến Hội An thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ của những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một quang cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà thôi”. (Theo “Kiến trúc phố cổ Hội An” – Việt Nam, NXB Thế giới 2003).
![]() |
Theo TS. Tạ Hoàng Vân, có nhiều yếu tố dẫn đến suy tàn của Hội An, “Sau thời kỳ Tây Sơn, Hội An đã không thể gượng mình dậy được. Cuối thế kỷ XVIII, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều không còn một thương quán nào của người châu Âu, việc buôn bán của họ ở Hội An ngày một suy giảm. Vào những nǎm 1792 – 1793, Hội An chỉ là trạm trú chân cho những chuyến hàng ế ẩm. Mất đi vai trò đầu não về thương mại, Hội An đóng vai trò “tiên cảng cho Đà Nẵng”.
Đến thế kỷ XX, khi xuất hiện con đường sắt Bắc – Nam từ Quy Nhơn ra Đà Nẵng, đường quốc lộ được rải nhựa thì “Hội An như một túi hàng bị bỏ quên, dinh thự, phố xá, bến cảng cũng theo con đường ấy dựng lên ở Đà Nẵng”. (theo “Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn” – Đỗ Bang, NXB Thuận Hóa 1977).
TS. Tạ Hoàng Vân cho rằng, ngoài chính sách chính trị thay đổi với thương nhân nước ngoài thì hiện tượng biến đổi các dòng sông cũng thấy ở các đô thị khác. Vì thế, mọi nguồn hàng đều đổ về đầu mối Đà Nẵng. “Đến năm 1847 duy chỉ có cửa biển Đà Nẵng là nơi có nhiều tàu thuyền đi lại. Đà Nẵng càng lớn mạnh thì Hội An càng đơn vắng nằm im lìm bên dòng sông cạn”, ông Vân bày tỏ.
Ngày 9/10/1888, Vua Thành Thái ra dụ thành lập thị xã Faifo (Hội An) làm tỉnh lỵ Quảng Nam. Ngày 9/10/1905, tuyến đường xe lửa được khai thông. Đà Nẵng trở thành một thành phố Cảng biển chiếm ưu thế lớn nhất ở miền Trung lúc bấy giờ.
Những năm cuối của thế kỷ XIX, Đà Nẵng được triều đình Nguyễn coi là địa bàn chiến lược quan trọng. Để tăng cường lực lượng cho công cuộc phòng thủ đất nước, triều Nguyễn đã cho đặt tại Quảng Nam một sơn phòng. Trung tâm chính trị, kinh tế và xã hội của Quảng Nam vẫn là tỉnh thành La Qua (Điện Bàn) và Hội An nơi Pháp đặt tòa Công sứ. Trong cuốn bút ký “Hành trình đến Nam Kỳ”, thuyền trưởng John White đã mô tả “Hội An đang rơi vào cảnh nghèo nàn, suy sụp, không có người thăm viếng, trừ đội thuyền của địa phương và một tàu nhỏ từ Bắc kỳ đến…” (Tạp chí Xưa và Nay, 1998).